QUAN SÁT VẬT LIỆU NANO BẰNG KÍNH HIỂN VI ĐIỆN TỬ TRUYỀN
QUA
TS. Trần Quang Huy – Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương
I. Giới thiệu chung
Kể từ khi Hai nhà khoa học người
Đức: Max Knoll và Ernst Ruska phát minh
ra kính hiển vi điện tử truyền qua (Transmission Electron Microscope - TEM)
trên thế giới năm 1931. Phát minh này đã mở ra một kỷ nguyên mới cho việc
nghiên cứu và quan sát những mẫu vật trong thế giới siêu vi mô. Ngày nay, TEM
là một thiết bị nghiên cứu rất quan trọng trong các ngành khoa học nhằm quan
sát và phân tích các đặc tính về cấu trúc, hình thái và thành phần của mẫu vật ở
cấp độ nanô mét.
Hiển vi điện tử truyền qua là một
thiết bị không thể thiếu khi nghiên cứu về vật liệu có kích thước nano, TEM
không những cho các nhà nghiên cứu biết được các thông tin về những đặc trưng
về hình thái, cấu trúc của vật liệu mà còn cho phép kiểm soát được chất lượng
của vật liệu chế tạo được (tính đồng nhất về cấu trúc và kích thước, độ lặp
lại, sự sai hỏng, khả năng phân tán…). Đặc biệt, khi kết hợp với những phép phân
tích khác kèm theo hiển vi điện tử truyền qua như EDX, nhiễu xạ điện tử còn cho
biết bản chất và thành phần của mẫu.
Tuy
nhiên, hiển vi điện tử truyền qua là một phương pháp nghiên cứu tương đối phức
tạp và có nhiều kỹ thuật khác nhau, tuỳ thuộc vào đối tượng và mục đích nghiên
cứu, các thiết bị phụ trợ và hoá chất chuyên dụng. Vì vậy, người sử dụng phương
pháp TEM trong nghiên cứu vật liệu nano không những phải am hiểu về các thuộc
tính của mẫu, khả năng phân tích vi cấu trúc, mà còn phải hiểu được qui trình
chuẩn bị mẫu để vận dụng, khai thác thông tin thích hợp. Trong nhiều trường
hợp, khi phân tích mẫu vật liệu nano sẽ gặp những giả hạt có kích thước nano
hình thành bởi màng cabon bị chùm điện tử bắn phá, các chất bụi bẩn hoặc lỗi
trong quá trình chuẩn bị mẫu đều ảnh hưởng đến kết quả phân tích.
Trong bài
viết này, tác giả xin giới thiệu một số phương pháp chuẩn bị mẫu vật liệu nano
cho kính hiển vi điện tử truyền qua và đưa ra những hình ảnh minh họa.
II. Phương pháp chuẩn bị mẫu
Đối với các loại vật liệu khác nhau đều có kỹ thuật chuẩn bị mẫu khác
nhau để được kết quả tốt nhất.
2.1 Chuẩn bị màng đỡ
Khi phân tích các mẫu vật liệu
nano bằng phương pháp TEM, một trong những bước quan trọng nhất là công đoạn chuẩn
bị lưới và màng đỡ sao cho lưới có độ
bền cơ học cao. Thông thường, để đạt được độ ổn định cơ học và độ phân giải cao
trong quá trình quan sát mẫu vật liệu nano, người ta thường sử dụng lưới đồng
200-300 mắt lưới (mua từ công ty EMS-Electron Microscopy Sciences) có phủ màng
cacbon. Quá trình tạo màng cacbon được thực hiện nhờ máy bốc bay cácbon chân
không cao (JEE 420 –JEOL, Nhật Bản) với hai thanh cacbon sạch (đường kính 5mm)
được nối với hai điện cực cho tiếp xúc với nhau, trong đó một thanh được vót
nhọn, thuôn. Sử dụng một tấm mêka chuyên
dụng và sạch để làm đế tạo màng cacbon bằng phương pháp lắng đọng. Hơi cacbon
trong quá trình bốc bay sẽ đọng lại trên đế thành màng mỏng đồng nhất và có độ
dày 40-60nm (độ dày thích hợp-có màu
vàng rơm). Màng cacbon được tách khỏi đế bằng cách tách nổi trên bề mặt nước
cất hai lần. Lưới đồng sau khi rửa sạch được đặt úp xuống bề mặt màng cacbon
nổi trên mặt nước. Sử dụng loại giấy lọc Whatman loại 1 để thu lưới có màng
theo cơ chế “sandwich”. Lưới đã phủ màng cacbon để khô nguyên trên giấy lọc ở
điều kiện thường để chờ làm mẫu.
2.2 Đưa mẫu lên lưới
a)
Mẫu vật liệu nano dưới dạng huyền phù (lắng đọng)
Để bảo vệ bề mặt mẫu, tránh
khả năng kết tụ hoặc dùng cho những mục đích ứng dụng khác nhau, người ta
thường sử dụng một dung dịch hoặc chất bao bọc hạt nano. Do đó, mẫu thường tồn
tại dưới dạng huyền phù. Một số mẫu chỉ sử dụng nước hoặc dung dịch dễ bay hơi
làm môi trường. Quá trình làm mẫu được thực hiện bằng cách nhỏ một giọt dung
dịch có mẫu lên trên lưới đồng đã phủ màng cácbon, để khô trong không khí hoặc
sấy trong tủ ấm 37°C, chờ quan sát dưới TEM. Trong trường hợp mẫu bị kết tủa
rung siêu âm từ 10 phút -30 phút tùy theo mức độ kết tủa hoặc kết đám. Mẫu quá
đặc thường phải pha loãng bằng dung môi thích hợp trước khi đưa lên lưới.
b)
Mẫu vật liệu nano dạng bột
Rất nhiều loại mẫu vật liệu
nano nghiên cứu hiện nay tại Việt Nam đều cô đặc lại thành dạng bột (TiO2,
Ag, ZnO, Al2O3,…). Để phân tích bằng TEM, các mẫu này nên
được hòa tan vào dung môi thích hợp và rung siêu âm từ 15 phút – 2 giờ tùy theo
vật liệu. Sau đó, nhỏ một giọt dung dịch chứa mẫu lên trên lưới đồng đã phủ
màng cácbon. Để khô tự
nhiên trong không khí và quan sát dưới TEM. Lưu ý, nếu có quá nhiều mẫu trên
lưới (có thể quan sát được bằng mắt thường) cần phải gõ vào lưới để giảm lượng
mẫu, tránh rơi xuống cột kính trong quá trình quan sát.
2.3 Mẫu nano composit
Các mẫu nano composit
thường ở trạng thái rắn, nhựa dẻo hoặc cao su, do đó trước khi phân tích TEM,
các mẫu này cần được ngâm và cắt siêu mỏng trong nitơ lỏng, mỗi lát cắt có độ
dày từ 50-100nm. Mẫu cũng có thể được polyme hóa trong Epon812 để tạo nền cứng
polyme trước khi cắt. Cắt mẫu bằng dao kim cương Diamond nghiêng 45° hoặc dao
thủy tinh.
2.4 Ống nano, xốp, màng mỏng
ống nano, mẫu vật liệu
xốp thường được đưa trực tiếp lên trên lưới đồng đã phủ màng cácbon. Do các vật
liệu này gắn kết với màng các bon yếu, rất dễ bị tích điện, dẫn đến hiện tượng
trôi hoặc bị bật ra khỏi vị trí của chúng. Hơn nữa, màng cacbon là loại kỵ nước
nên cũng làm giảm liên kết giữa màng và vật liệu. Do vậy, thường sử dụng dung
dịch đặc biệt (bacitracin 0,1%) để ion hoá và làm giảm khả năng kỵ nước của
màng cácbon trước khi đưa mẫu lên lưới.
Đối với mẫu vật liệu là
màng mỏng phủ trên đế (silic,…) được tách ra khỏi đế và đưa trực tiếp lên lưới
để quan sát.
Đối với những mẫu là kim
loại hay hợp kim dầy ta phải dùng thiết bị ăn mòn (FIB – Focus Ion Beam) để tạo
thành lớp mỏng dưới 100nm, và đường kính mẫu nhỏ hơn 3,05mm để phù hợp với vị trí
đặt mẫu của TEM.
III. Kết quả minh chứng
Hình
1: Các hạt nano ZnO có kích thước trung bình 4nm, phân tán đều trong dung dịch.
Mẫu đo được từ dung dịch dạng huyền phù.
Hình
2. Các hạt nano bạc có cấu trúc lõi - vỏ, kích thước trung bình 20nm. Tuy
nhiên, các hạt này có kích thước không đều, được bao bọc bởi lớp vỏ polyme có độ dày 1nm.
3.2. Vật liệu cấu trúc nano
Hình 3. Nền polyme chèn khe vào các lớp đất sét, tách thành
những khe rộng 3-4nm. Một số vị trí khác các lớp vẫn chưa tách hoàn toàn, tạo
thành những bó giống như các sợi sắp xếp liền sát nhau
3.3 Ống cacbon và xúc tác
Hình
4. ống nano cácbon có chứa các hạt sắt bên trong lòng ống.
Hình
5. Cấu trúc xốp hình lục lăng sắp xếp một cách đều đặn, có trật tự. Đường kính
lỗ cỡ 6-7 nm, thành ống 1-2 nm
IV. Kết luận
Các kết quả trên được thực hiện tại Phòng thí nghiệm Siêu cấu trúc và
Nano y sinh– Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương. Mẫu được cung cấp bởi các đơn vị
nghiên cứu trong nước gửi tới phòng thí nghiệm. Bài viết này đã đưa ra một số
thông tin cơ bản về các kỹ thuật chuẩn bị mẫu và quan sát mẫu vật liệu nano bằng
hiển vi điện tử truyền qua, giúp cho bạn đọc hiểu được một vật liệu nano sẽ
được quan sát như thế nào trên kính hiển vi điện tử truyền qua.
TÀI LIỆU THAM
KHẢO
1.
Nguyễn Kim Giao. Hiển vi điện tử truyền qua. Nxb Đại học
QGHN 2004
2. H.S. Nalwa.
Handbook of Nanostructured Materials and Nanotechnology, vol. 1, Academic Press, 2000
0 nhận xét:
Đăng nhận xét